Mưa đỏ – một ẩn dụ đau thương, khốc liệt.

Lịch sử được viết bằng những con số và lịch sử được viết bằng những câu chuyện. Mưa đỏ là một câu chuyện điện ảnh đã chạm vào đáy sâu cảm xúc người xem, sau hơn 50 năm chiến tranh đi qua, đúng dịp kỉ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9.

Mùa hè rực lửa 1972, những chàng trai vừa tuổi đôi mươi đã giã từ mái trường đại học, cầm súng bước vào chiến trường ác liệt bậc nhất của lịch sử. Bộ phim Mưa đỏ đã cho chúng ta nhìn đại cảnh 81 ngày đêm giao tranh ác liệt ở Thành cổ Quảng Trị, nơi mỗi tấc đất được giữ, mỗi sinh mệnh còn sức chiến đấu có sức nặng quyết định trên bàn đàm phán. Thành cổ 1/4 cây số vuông trở thành chảo lửa thương đau, một cối giã thịt nghiệt ngã, nơi ranh giới sinh tử mong manh khủng khiếp. Sứ mệnh đầu tiên của phim đã làm được, là tái hiện chân thực cái khốc liệt của cuộc chiến, với những hy sinh mất mát tận cùng của nhân dân. Không chỉ là âm thanh chát chúa của bom rơi đạn nổ, màu đỏ lòe của dòng sông máu, ánh sáng vàng rực của bom na pan mà còn ở nhiều chi tiết khác, đã đẩy cảm xúc người xem lên tới đỉnh điểm. Kịch bản phim đã tiết chế lại nhiều chi tiết trong nguyên tác của Chu Lai, bởi e cảm xúc người xem sẽ vượt ngưỡng, đến mức không thể chịu đựng nổi. Mình không dám nhắc tới những hình ảnh người xem có thể không dám nhìn thẳng vào màn ảnh, nhưng chỉ vài chi tiết như Sen bị chấn thương tâm lý đến hóa điên, hú lên tiếng hú của loài sói trong đêm hoang lạnh, hay Tấn bắt rắn ăn sống, miệng nhầy nhụa máu sau mấy ngày đói lả để có sức mà chiến đấu tiếp, đủ thấy sự khốc liệt của chiến tranh như thế nào.

Như chính quy luật thương vong ở đây, 10 người qua sông Thạch Hãn 9 người hy sinh. Tiểu đội 1 có 7 người, duy nhất 1 người còn sống. Mỗi sự hy sinh của họ đều để lại những khoảng lặng đủ sâu và đau trong cảm xúc người xem. Tú, người em nhỏ đã chết như một hoàng tử bé, khép lại đôi mắt trong veo, bàn tay chìm xuống nước mềm như chiếc lá, thân thể đã được dòng nước ôm ấp đón về. Tạ, chết trong vòng tay đồng đội, cùng lá thư viết trước nhắn nhủ vợ con nơi quê nhà, giọt nước mắt như neo níu những yêu thương cuối cùng trước khi giã từ sự sống. Hải, cái chết bi tráng nhất, bởi cả thân xác là một ngọn đuốc cháy rừng rực. Sen, chết trong sự phẫn uất điên loạn sau cái chết của đồng đội. Bình, giã từ sự sống trong chớp mắt, bầu trời sáng lên một khoảnh khắc và khép lại vào bóng tối. Và Cường, sự hy sinh của anh để lại nhiều suy tư nhất: đấy là cuộc đấu sinh tử của hai chiến tuyến, hai lý tưởng, chiếc khăn rằn bị xé làm đôi.

Bộ phim cũng đã khéo cân bằng cảm xúc của người xem, cân bằng cái khốc liệt của bom đạn chiến trường và cái bình dị, đáng yêu đời thường của người lính. Anh Tạ, người Thanh Hóa, gốc nông dân 100%, là nhân vật đáng yêu nhất bởi đã thổi vào bộ phim tất cả cái chất phác, giản đơn, mộc mạc của người lính nông dân. Ai bảo phim chỉ có nước mắt? Tiếng cười của người xem cũng bật lên từ những chi tiết hài hước đời thường quá đỗi. Những lời thoại đời thường, đã kéo gần người xem với các nhân vật trong phim. Vậy là, giữa nơi bom đạn bất thường này, một cuộc sống bình thường của những con người bình thường vẫn đương nhiên tồn tại.

Khốc liệt, nhưng bộ phim cũng đã làm cho trái tim người đọc mềm dịu bởi nhiều chi tiết rất con người, đầy nhân văn. Tạ đã đấu tranh nội tâm dữ dội và cuối cùng tha mạng sống cho người lính phía bên kia chiến tuyến khi nhìn thấy tấm ảnh vợ con của anh ta rơi ra. Dù đứng ở phía nào, thì sau lưng người lính vẫn là người thân yêu. Chàng sinh viên nhạc viện và kiến trúc vẫn viết nhạc, vẽ tranh sau mỗi trận đánh. Chồi non vẫn mọc trên chiến hào, con chim nhỏ bay lạc vào trận địa không chịu bay đi. Và con người ta vẫn nảy nở những cảm xúc của tình yêu, tình thương. “ Hết chiến tranh, em sẽ cùng anh ra Bắc thăm mẹ nhé!” là lời ước hẹn lứa đôi; “ Hết chiến tranh, con sẽ trở lại nhạc viện” là lời hứa của Cường với mẹ lúc ra trận; “ Khi nào em thay anh mua cho con chiếc cặp màu xanh nhé” là lời nhắn nhủ cuối cùng Tạ gửi gắm trước khi nhắm mắt… Từng chi tiết nhỏ, từng lời thoại trong phim đã chạm vào trái tim chúng ta. Nếu trên đời không tồn tại những điều nhỏ nhoi đó, người lính có động lực để sống không? Sau khi bom trút xuống thành cổ tan hoang, chết chóc, im lặng bao trùm, âm thanh đầu tiên vang lên là tiếng kêu chích chích của con chim nhỏ và hơi thở nhẹ của người lính vừa bị bom vùi. Sự sống đang trở lại rưng rưng. Phim đã kết nối tự nhiên từng chi tiết nhỏ giàu sức gợi, những khoảng thở nhẹ nhàng của âm thanh, từ tiếng nổ chát chúa đến khoảng lặng không lời, đều vang lên trong lòng người xem những cảm xúc đa thanh, vừa cao trào vừa lắng sâu.


Phim có nhiều chi tiết mang tính ẩn dụ, các thủ pháp điện ảnh làm cho những chi tiết ấy càng mang dấu ấn đậm sâu, tác động trực tiếp vào thị giác và cảm xúc người xem. Mưa đỏ, tiêu đề của bộ phim, không chỉ là biểu tượng cho gian khổ, hy sinh khốc liệt, còn là tiếng khóc của trời đất, và sau cùng là khát khao gột rửa những đau thương khi hòa bình. Chiếc khăn rằn, từ một kỉ vật của tình yêu, trong cuộc đấu tranh giằng xé nó trở thành biểu tượng của tình yêu, và vượt lên ý nghĩa số phận cá nhân, chiếc khăn rằn trở thành biểu tượng quê hương Việt Nam mang nỗi đau chia cắt. Cái chết của Cường và Quang- người lính ở phía bên kia, mỗi người nắm giữ một đầu của chiếc khăn rằn, vô tình hay khéo sắp đặt của đạo diễn, thành 2 nửa cong cong hình chữ S bị cắt rời, gợi cho người xem về nỗi đau cắt chia của dân tộc mình. Người xem cũng nhớ mãi hình ảnh thành cổ làm nền cho kết thúc bộ phim, ám ảnh mãi không nguôi một mái nhà nát tan trên thành cổ, như triệu triệu mái nhà Việt tan hoang trong cuộc chiến khốc liệt bi thương này.

Thông điệp của yêu thương và hòa giải. “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ”, nhưng trong Mưa đỏ, 3 người phụ nữ không chỉ làm mềm cốt truyện chiến tranh khốc liệt, mà họ còn mang thông điệp yêu thương, mất mát và hòa giải. Tiếng kêu xé lòng “Mình ơi” trong đêm mưa của Hồng, là tiếng vọng của bao nỗi đau người yêu, người vợ mất người thân yêu. Nước mắt của hai người mẹ ở hai đầu chiến tuyến giống nhau, nỗi đau của họ như nhau khi mất con. Hình ảnh cuối phim, hai người mẹ ngồi hai đầu chiếc thuyền, cùng thả hoa trên sông Thạch Hãn, cũng là thông điệp bộ phim muốn gửi gắm: bước qua thù hận, hàn gắn thương đau, hòa giải dân tộc. Cái nhìn đa chiều lịch sử, gắn liền với bi kịch thân phận con người đã gắn kết khán giả dễ dàng hơn khi xem phim. Dòng lịch sử đã được khơi thông trong trái tim con người Việt Nam hiện đại.

Bản tráng ca đau thương khốc liệt là âm hưởng dữ dội xuyên suốt bộ phim, nhưng cho đến những phút cuối cùng, âm hưởng da diết nhất lại là bản giao hưởng Cường đã viết trong những ngày chiến đấu ở Thành cổ. Thông điệp cuối cùng và lớn nhất của bộ phim vẫn là khát khao hòa bình, khát khao muôn đời của đất nước chịu quá nhiều đau thương, mất mát này.


Biết ơn những người đã làm nên bộ phim. Không có nhà văn Chu Lai không có tiểu thuyết Mưa đỏ. Không có nữ đạo diễn quân đội Đặng Thái Huyền không có bộ phim Mưa đỏ. Hơn hết, không có nhân dân, đắp máu xương mình lát nền cho lịch sử, không có Mưa đỏ. Máu đỏ hóa thành sông, và sau 50 năm theo quy luật thời gian, dòng sông đã trong trở lại, linh hồn các anh hóa thành sông núi nước non này. Thời gian khắc nghiệt, thời gian bao dung, tạo khoảng lùi lịch sử cần thiết để người Việt Nam trân trọng cái giá của hòa bình.

Ngày 2/9/2025.

Mưa đỏ | Anh Lê.


Comments

Leave a comment